Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

  TỰ CHUYỆN
(Bài đăng vào sách của lớp)
 
                                                    TIA CHỚP CỦA SỐ PHẬN

             Tôi sinh ngay 16 tháng 10   năm 1941 tai một nhà hộ sinh  trên con phố Quán Sứ của Ha Nội. Cha Mẹ tôi đều là người gốc Huế. Năm 1933 cha tôi  Hoàng Như Tiếp tốt nghiệp khóa đầu tiên tại khoa Kiến trúc của trương Mỹ thuật Đông dương, ông đưa gia đình ra Ha nôi sinh sống.  Ra trường ông mở xưởng vẽ tư nhân cộng tác với KTS  Nguyễn cao Luyện  và họa sỹ Tô ngọc Vân. cuộc sống của gia đình tôi lúc đó rất khá giả, tôi được một vú em chăm sóc. Năm 1946, khi tôi lên 5 tuổi thì cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, là một trí thức nhưng cha tôi đã nghe theo lời Bác gọi đưa cả gia đinh  ra kháng chiến. Gia đình tôi định cư ở huyện Chiêm Hóa tỉnh Tuyên Quang. Những năm từ 1947 tới 1952 tôi sống cùng Mẹ, chi, em gái  tại đó, tôi phụ giúp mẹ tăng gia, cuốc đất trồng khoai, cuộc sống tuy vất vả nhưng cũng tạm đủ ăn. Tôi vẫn được cắp sách tới trừơng làng, học đến hết lớp 4. Bố tôi làm việc tại An toàn khu ( ATK ), chính ông là người đã thiết kế khu hội trường và nhà ở cho các đại biểu cả nước về dự Đai hội Đảng toàn quốc lần thư 2 tai Việt Bắc, công trình này được Bác Hồ giao phó, khi hoàn thành Bác đã rất ngợi khen  và Cha tôi được đặc cách mời tham dự Đai hội .

         Cuối năm 1953, một hôm bất ngờ cha tôi ghé về thăm nhà và nói với Mẹ tôi là Bác Hồ và Trung ương đảng chọn một số con em cán bộ cách mang và trí thức theo Kháng chiên gửi sang bên TQ để hoc tập sau này làm việc cho đất nước khi kháng chiến thắng lợi. Cha tôi muốn cho người chị gái hơn tôi một tuổi đi, nhưng cả mẹ và chị đều không muốn con gái phải xa mẹ, thế là tôi được chọn thay. Một tuần sau đó một chú cán bô tên là Lễ đưa xe đạp đến đèo tôi lên khu ATK. Khi chia tay Mẹ chị và 2 em tôi đã buồn đến rơi nước mắt  và không muốn xa gia đình. Tôi theo chú  ghé qua khu ATK nhưng không gặp cha tôi, ở đó một ngày  rồi hai chú cháu lên đường qua Thái Nguyên  lên Lạng Sơn. Đường đi đày khó khăn trắc trở, chú Lễ thật vất vả còn tôi thì ngồi ê cả mông, cuối cùng cũng đến được trạm liên lạc ở ngay sát biên giơi . Tôi ở đó vài hôm rồi cùng một nhóm các ban khác đi bộ qua biên giới Muc Nam quan rôi lên xe ô tô đi tiếp. Khi qua biên giới tôi cũng không biết, lúc đó chỉ nhặt được vỏ bao thuốc lá "Đại Tiền môn" thi biết là đã sang đất Trung Quôc. Từ Bằng Tường tôi lên xe ô tô mui bịt kín lên Nam Ninh rồi đi xe lửa lên Quế Lâm. Tới ga Quế Lâm bọn tôi lại phải chui vào xa tải GMC  bịt kín chạy về trường rồi sau đó thế nào tôi không con nhớ nữa, chỉ thấy mệt và buồn. Lúc tôi đến trường thì đã có nhiều bạn rồi không biết là các bạn đó mới tư trong nước sang Quế Lâm hay là từ Lư Sơn chuyển về. Tôi được phân vào lớp 5 A, khi chụp ảnh 3 người, tôi đứng giữa, hai bên là bạn Hông Sỹ và Tiến Nguyên (Bức ảnh này đã bị thất lạc khi tôi đi sơ tán trong thời gian Mỹ ném bom Hà Nội ),thật đang buồn là 2 người bạn đó có rất nhiều kỷ niêm với tôi lại đều đã vội vàng ra đi. Ở trường Quế Lâm tôi thuôc  loại trò ngoan, không nghịch ngợm, tính hơi nhát và ngô nghê chẳng biết gi ngoài chuyện học hành. Tôi cũng như nhiều bạn nam rất thích ra chơi và tắm ở sông Ly, nước sông rất xanh, thi thoảng lại thấy một chiếc thuyền lướt nhẹ ,trên thuyền có những chú chim sếu chuyên mổ bắt cá cho chủ thuyền .  Đến giờ tôi vẫn còn nhớ mãi cái món cháo trắng ăn với calathau mỗi buổi sáng, hễ có dịp đến Trung Quốc là tôi lại mua một ít calathau đem về ăn và gửi tặng các bạn cùng lớp thời Quế lâm.  Kỷ niệm tôi còn nhớ mãi đó là buổi đưa tiễn cô Quế về Nam Ninh tại nhà ga Quế lâm, kỉ niệm đó tôi đã ghi lại trong bài viết về  cô giáo thân yêu của lớp 5 chúng mình. Những tháng năm đó để lại nhiều dấu ấn cho cuộc đời mỗi chúng ta sau này. Tôi coi đó như là một "tia chớp của số phận" mình vậy, chuỗi ngày tháng  của tuổi thơ ấy là những bước đi chập chững đầu đời tạo nên tính cách con người tôi trong suốt cuộc đời sau này.

      Sau khi trở về nước năm 1957 , tôi   và nhiều bạn khác theo học cấp ba tại trường Chu văn An . Sau khi tốt nghiệp lớp 10 phổ thông, năm 1961 tôi theo học lớp tiếng trung ở trường ngoại ngữ Gia Lâm, tháng 9 năm 1961 thì sang học tại khoa ngữ văn trương Đại học Bắc Kinh Trung Quốc, cùng học với Ngọc Trâm. Học với nhau một thời gian thì bạn Trâm bị ốm phải trở vè  nước, ngày bạn ấy chia tay chúng tôi còn mang hoa đến tặng. Sau 5 năm dùi mài sách vở, học chuyên về hán ngữ và văn học Trung Quốc tôi cứ đinh ninh sẽ về công tác ở viện ngôn ngư chỗ ban Trâm, nhưng không ngờ  tháng 11 năm 1966 tôi  được Đại Sứ Trần Tử Bình chọn làm phiên dịch cho Sứ quán . Thế là tôi trở thành nhân viên Ngoại giao và bắt đầu cuộc đời đi sứ liên miên, làm cán bộ phiên dịch rồi chuyến sang cán bộ nghiên cứu.  Năm 1992 tôi được đề bạt  làm Vụ trưởng  vụ Trung Quốc của Bộ Ngoại giao, sau đổi thành Vụ Đông Bắc Á . Tôi giữ chức vụ này suốt chục năm sau đó cho tới khi nghỉ hưu năm 2007. Trong 40 năm làm nghề ngoai giao tôi đã 3 lần đi sứ Bắc kinh , làm Tùy viên, rồi Bí thứ 3 , lân sau cùng ở TQ là Tham tán Công sứ  (1988-1990 ). Năm 1996 tôi được Nhà nước cử làm Đại Sư Đặc mệnh toàn quyền tai Malaysia trong 4 năm, đến năm 2003 khi làm Vụ trưởng Vụ Đông Bắc Á thì tôi lại được cử sang Đài Loan làm Chủ nhiệm văn phòng Kinh tế Văn hóa của VN ở Đài bắc . Năm 1971 tôi lập gia đình, điều hơi bất ngờ là  Vợ tôi Nguyễn Hồng Liên lại có anh trai là Nguyễn Ngọc Tiến học trò lớp 3A Quế Lâm, Anh đã hy sinh cùng mấy người bạn nữa đều là học trò Quế Lâm khối 3, khi đó Anh là phi công lái máy bay trực thăng tham gia chiến đấu chống máy bay Mỹ trên bàu trời Hà Nôi năm 1967.

       Hơn 40 năm theo nghiệp Ngoại giao, tôi gần như tập trung toàn bộ sinh lực vào công việc theo dõi, nghiên cứu về đất nước Trung Quôc - người láng giềng khổng lồ ở phía bắc, đất nước mà thuở ấu thơ tôi đã từng sống, ăn học lớn lên rồi làm việc nhiều năm tai đó, tôi cũng là người trực tiếp tham gia vào việc xử lý mối quan hệ  VIETNAM-TRUNG HOA đày thăng trầm.Tôi đã dến với nhiều nước trên thế giơi tư Âu sang Á, từ Nga đên Mỹ, Nhật Bản, các nước Đông Nam á, nhưng Trung Quốc vẫn là nơi tôi có nhiều duyên nợ nhất. Tôi đã sống ở đó trong những thời kỳ quan hệ hai nước tốt đẹp nhất, cảm nhận rõ tấm lòng hào hiệp của người dân Trung Quốc mặc dù cuộc sống còn khó khăn vẫn dành một phân cơm áo chi viện cho cuộc chiến chông Mỹ giành độc lập thống nhất của nhân dân Việt nam, tôi cũng tận mắt chứng kiến những phong ba bão táp của cuộc "cách mạnh văn hóa" cướp đi sinh mang hai chục triệu người dân, cuộc đàn áp đẫm máu trên quảng trường Thiên An môn năm 1989, và đã trải qua những tháng ngày căng thẳng khi chính người "đồng chí anh em " này  đã đưa 60 vạn quân ồ ạt tấn công các tỉnh biên giới phia bắc của Việt nam tháng 2/1979.
  Cuộc đời tôi đã trải qua nhiều cung bậc thăng trầm. Có lúc tôi được ngồi trên ghế cao bên cạnh nhà Vua của nước láng giềng Malaysia khi được Chủ tịch nước trao cho danh hiệu cao quý là Đai sứ, người đại diện tối cao của nhà nước Việt Nam , có khi lại đầu tắt mặt tối cùng những đồng nghiệp miệt mài dich bản tuyên bố của Chính Phủ ta lên án Bành trướng phương bắc đem quuân xâm lấn Việt Nam. Cũng có  nhiều  dịp tôi được rong chơi thăm thú những thắng cảnh lừng danh cua Paris ,Tokio , Washington nhưng cũng có những đêm dài tôi trằn trọc, âm thầm buồn bã trước nối đau của một cô dâu người Việt bị ngược đãi trên hòn đảo Đài loan khi tôi là người Đại diện của Việt Nam tại đó.
  Nhưng trải qua tất cả những thăng trầm, những đảo lộn khó lường trước được đó, tôi vẫn bình  thản để đến với tuổi già. Nghỉ hưu rồi, như các cụ xưa vẫn nói : "Vô quan nhất thân khinh " (Không còn quan chức, một đời nhẹ tênh).Sau những ngày tháng cần mẫn làm việc, nay đã đến lúc " Giải giáp quy điền", tôi luôn cảm nhận đước sự thanh thản, và có đôi chút "mãn nguyện" vì mình đã không làm điều gì hổ thẹn với tổ quốc, với nhân dân . Nay trở về với cuộc sông bình dị tôi cảm thấy thật an lòng. Người xưa đã nói : " Nhân đáo vô cầu, phẩm tự cao " (con người khi đã tới lúc không còn đòi hỏi gì nữa thì phẩm hạnh sẽ trở nên thanh cao ) quả đúng không sai.
      Trong cuộc sống, điều đáng sợ nhất không phải là sợ bị mất của cải, tiền bạc, chức tước mà chính là sợ bị mất lòng tin ở cuộc sống, ở vào tuổi  "cổ lai hy" điều này càng có ý nghĩ hơn.  Cũng như các bạn  khác, vào tuổi già rồi tôi luôn  yêu quý trân trọng cuộc sống hơn, không phải bởi quỹ thời gian mỗi ngày một ít đi mà bởi chính là niềm tin với cuộc sống .
   Như người đời thường nói :
       Sống yên vui danh lợi mãi coi thường
       Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến.
  Đó cũng chính là tâm nguyện của tôi.

      Trong những ký ức về cuộc đời mình, tôi luôn nhớ về một thời thơ ấu, nhớ về mái trường thiếu nhi Quế Lâm. Đó là những ngày tháng đẹp ,trong sáng của tuổi thơ, của tình bạn thắm đẵm nhưng tình cảm thân thiết vô tư. Bây giờ mỗi khi nghĩ về nhưng kỉ niệm đó , nhớ về mái trường xưa ấy tôi như  thấy ở đâu đó :
         Những hình bóng bạn bè thuở ấy
         Sao không bao giờ nhạt phai?
        Tình bạn thân thiết hồn nhiên ấy theo chúng tôi đi suốt những năm tháng của cuộc đời, làm sao lại nhạt phai được  chứ , sẽ chẳng bao giờ nhạt phai đâu.

  Thời gian cứ lặng lẽ qua đi , tôi như đang bồng bềnh trôi trong khúc cuối của dòng sông cuộc đời . Giờ đây trong cuộc sống bình thản này :

     " Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
     cùng với anh em tìm đến mọi người.."

Tôi sẽ mãi như thế và cùng với các bạn một thời Quế lâm của mình, chúng tôi sẽ sát cánh bên nhau, cùng nhau hát ca để  luôn thấy :
       ".. Tiếng cười rộn rã bay ".

                                                                             Công Lý tháng 6 năm 2013

                                                   VỀ THĂM MÁI TRƯỜNG XƯA

                                 Về thăm trường cũ không em
                                 Dòng sông Ly vẫn êm đềm trôi xuôi.?

                                 Quế Lâm ngày ấy đâu rồi
                                 Còn trong ký ức một thời khó phai
                                 Đi tìm ai, có thấy ai
                                 Những bè bạn tháng năm dài bên nhau
                                 Vẫn màu hoa thắm Trúc đào
                                 Vẫn tình bằng hữu thuở nào ấu thơ
                                 Dòng đời trôi, một giấc mơ
                                 Mái trường xưa giục lời thơ tuôn trào.

                                 Trở về với nỗi ước ao
                                 Quế Lâm trường cũ ấm sao tình người.

                                                                      Công Lý 25 tháng 8 năm 2010


   

6 nhận xét:

  1. Trong phần nhận xét của bài dưới tôi gửi Link để bạn tìm bài cũ của bạn, bài ấy tôi thích hơn bài này. Bạn hãy tìm đọc mà kết hợp hai bài với nhau!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Ánh mới đưa một danh sách các bài ở Blog cũ của QL vào blog của bạn ấy đấy!
      Tìm bài của bạn ở đó dễ hơn.

      Xóa
  2. TH sang thăm bác! Chúc bác luôn khỏe và an vui!

    Trả lờiXóa
  3. Bạn còn một bài rất hay, tên là SUY NGẪM VỀ TUỔI GIÀ Kong Lý. Bạn tìm ở "Zing Blog I lưson.quelam. Không tìm được thì nhờ Nguyệt Ánh tìm hộ. Bài này hay hơn bài TIA CHỚP CỦA SỐ PHẬN.

    Trả lờiXóa
  4. TH thấy đúng là TIA CHỚP SỐ PHẬN!Một cuộc đời thật tuyệt,đi nhiều, biết nhiều, hiểu nhiều và đóng góp nhiều! TH chúc mừng bác!

    Trả lờiXóa
  5. Xin chân thành cám ơn bạn.
    Tây hồ sóng nước bao la
    Bên nhau bè bạn chan hòa niềm vui

    Trả lờiXóa